Động kinh là bệnh phổ biến, ước tính chiếm 0,5-1% dân số, hơn 50% xuất hiện ở trẻ em, nhất là trẻ nhỏ dưới 3 tuổi. Hơn 60% bệnh nhân động kinh có thể chữa khỏi nếu được chẩn đoán sớm và tuân thủ theo phác đồ điều trị của bác sĩ.
Động kinh là gì?
– Động kinh là tình trạng tổn thương não đặc trưng bằng sự lặp đi lặp lại những phóng lực kịch phát thành nhịp của tế bào não biểu hiện ra ngoài bằng: Cơn kịch phát về vận động (co giật các chi, co giật cơ), cảm giác, giác quan và tâm thần có tính chất lặp đi lặp lại nhiều lần và có hoặc không kèm theo mất ý thức trong một khoảng thời gian ngắn hoặc thay đổi về trạng thái tri giác.
– Những nguyên nhân có thể gây nên động kinh ở trẻ nhỏ bao gồm bệnh viêm màng não và các nhiễm trùng não khác, do bị sốt, u não, dị tật não, do các bệnh bẩm sinh (như hội chứng Down hoặc xơ cứng củ), bị chấn thương vùng đầu, đột quỵ, ngộ độc (ngộ độc chì hoặc carbon monoxide),…
– Trẻ sơ sinh cũng có thể bị động kinh nếu bị thiếu oxy trong quá trình mẹ mang thai và sinh nở, bị chảy máu trong não, người mẹ dùng các chất kích thích trong thời gian mang thai,…
Phát hiện sớm động kinh ở trẻ em
- Dấu hiệu của động kinh là những cơn động kinh xảy ra trong 1-2 tháng đầu đời.
- Do sự phát triển của não còn hạn chế, trẻ sơ sinh chỉ có biểu hiện một số hành vi nhất định, vì vậy các cơn động kinh ở trẻ sơ sinh thường khó phân biệt với các hành vi của trẻ sơ sinh bình thường.
- Do sự myelin hóa của hệ thống thần kinh trung ương chưa hoàn toàn đầy đủ ở trẻ sơ sinh, cơn động kinh dạng tăng trương lực – co giật không xuất hiện vào tuổi sơ sinh.
- Các cơn giật và tăng trương lực chỉ xảy rải rác ở từng phần khác nhau của cơ thể, không đối xứng, ngay cả khi não có tổn thương lan tỏa.
- Các cơn giật cơ thường xuất hiện ở hai bên, nhưng không phải là động kinh trên một trẻ sơ sinh có thần kinh bất thường, mà cơn động kinh có thể là ngừng thở, tăng trương lực toàn thân, mút môi liên tiếp, chân có cử động như đạp xe, hai mắt liếc,…
– Cơn động kinh toàn bộ :
- Cơn vắng ý thức: là những cơn rối loạn hoặc mất ý thức xảy ra trong giai đoạn ngắn (bất động, mắt nhìn xa xăm mơ màng, ngắt quãng các hoạt động mà trẻ đang làm). Có thể vắng ý thức kèm co giật (giật nhẹ cơ mí mắt, miệng), kèm mất trương lực tư thế, kèm tăng trương lực, kèm hiện tượng tự động lặp lại các cử động thông thường, kèm yếu tố thực vật khiến trẻ bị rối loạn vận mạch, thay đổi về hô hấp, giãn đồng tử, đái dầm.
- Cơn giật cơ: là các động tác giật cơ ngắn, như tia chớp, hai bên đối xứng khiến trẻ ngã mà không kèm theo rối loạn ý thức.
- Cơn co giật: trẻ bất thình lình co giật hai bên người cân xứng với tốc độ chậm dần, thời gian dao động khác nhau. Hay gặp khi sốt cao.
- Cơn tăng trương lực: cơn co cứng cơ không kèm theo rung cơ, kéo dài từ vài giây đến 1 phút, hay kèm theo rối loạn ý thức và rối loạn thực vật.
- Cơn mất trương lực: cơn mất hoặc giảm trương lực. Nếu thời gian rất ngắn thì chỉ gây nên hiện tượng gấp người hoặc gục đầu ra trước. Nếu thời gian dài hơn thì trẻ ngã ra đất trong tình trạng cơ hoàn toàn mềm nhũn.
- Cơn co cứng – co giật: khởi đầu trẻ mất ý thức, co cứng cơ sau đó giảm dần kèm theo rối loạn thần kinh thực vật, có thể cắn phải lưỡi. Sau đó xuất hiện co giật cơ hai bên đột ngột, có thể ngừng hô hấp. Giai đoạn sau cơn kéo dài vài phút đến vài giờ, đau đầu, đau người.
– Cơn động kinh cục bộ :
- Cơn cục bộ đơn giản vận động: Co giật ngón tay, ngón chân, nửa mặt, nửa người song không bị mất ý thức. Hoặc trẻ quay mắt, đầu, người và giơ tay giống như trẻ đang nhìn nắm tay của mình. Hoặc trẻ bị mất phát âm, không nói được. − Cơn cục bộ đơn giản giác quan, cảm giác: Rối loạn cảm giác thân thể đối bên (kiến bò, kim châm, đau như điện giật). Trẻ có thể có ảo giác (ánh sáng lờ mờ, tia sáng, điểm sáng, hình các ngôi sao) hoặc không nhìn thấy (bán manh, mù). Trẻ có cảm giác có tiếng động ù tai, tiếng huýt sáo. Trẻ có thể ngửi thấy mùi rất kỳ lạ khó chịu. Trẻ có thể có cảm giác chóng mặt quay cuồng, muốn ngã, bập bềnh. Trẻ có thể có cảm nhận vị đắng hoặc chua.
- Cơn cục bộ đơn giản với triệu chứng thực vật: Trẻ có thể tăng tiết nước bọt, nuốt, nhai, buồn nôn. Hoặc trẻ cảm thấy đánh trống ngực, nóng, xanh, tái, xung huyết, đái dầm, khó thở.
- Cơn cục bộ đơn giản với triệu chứng tâm thần: Trẻ mất khả năng nói, nói ngọng. Trẻ có thể cảm giác đã thấy, đã sống, chưa bao giờ thấy, không bao giờ sống, cảm giác quen thuộc hoặc xa lạ, mộng mị. Hoặc trẻ thấy khó chịu, sợ hãi, lo âu, cảm giác khủng khiếp, hiếm hơn là cảm giác dễ chịu, khát hoặc đói. − Cơn cục bộ phức tạp: Trẻ bị mất ý thức ngay từ đầu kèm các động tác tự động miệng (nhai, nuốt, liếm láp, ngoạm). Trẻ có thể có động tác bàn tay, cọ xát, gãi, cầm một vật, cài cúc áo, cởi cúc áo, lục túi, sắp xếp đồ vật, di chuyển đồ đạc. Hoặc có thể phát ra từ tượng thanh, tiếng kêu, nói một từ hoặc một đoạn câu.
Động kinh ở trẻ em có chữa được không?
– Nhiều người có quan niệm cho rằng động kinh là bệnh không chữa khỏi, không tiếp cận điều trị dẫn tới bỏ lỡ. Đặc biệt điều trị không kiên trì, bỏ cuộc giữa chừng. Động kinh là bệnh mạn tính cần kiên trì điều trị, nhưng sai lầm của nhiều người là điều trị gián đoạn, thậm chí đang điều trị thuốc chống động kinh lại chuyển sang các bài thuốc lá, thuốc nam làm bệnh trở nặng, thậm chí gây ngộ độc cho cơ thể, nhiều bệnh nhân tự tiện tăng, giảm liều, quên uống thuốc hay tự ý đổi thuốc đã làm mất cơ hội khỏi bệnh.
– Có nhiều phương pháp điều trị động kinh như uống thuốc chống động kinh, phẫu thuật, thực hiện chế độ ăn kiêng… nhưng dùng thuốc chống động kinh là điều trị bắt buộc. Người bệnh cần phải được điều trị sớm và tuân thủ chặt chẽ phác đồ điều trị.
– Tiên lượng của bệnh không phải là xấu, trên 60% bệnh nhi mắc động kinh kiểm soát được cơn và khỏi hoàn toàn sau liệu trình điều trị, chất lượng sống của người bệnh tốt.
– Còn khoảng 40% bệnh nhân động kinh nặng, tồn tại cơn dai dẳng, thậm chí kháng thuốc. Vì vậy người bệnh khi thấy dấu hiệu nghi ngờ động kinh như có những cơn co giật cần đến gặp bác sĩ chuyên khoa thần kinh để khám, chẩn đoán và được tư vấn điều trị.
Động kinh có nguy hiểm không?
– Trong hầu hết trường hợp thì không. Tuy nhiên, nếu bạn biết con mình bị động kinh thì cần giám sát bé kỹ hơn, đặc biệt là khi ở gần nơi có nhiều nước, ở nơi cao, nơi có giao thông diễn ra, cũng như ở các môi trường khác mà bé có thể bị thương nếu như bị co giật. Đồng thời, ở nhà, bạn cũng cần trải thảm dày dưới sàn, bọc lại các góc nhọn trên đồ vật.
– Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có những trường hợp tuy rất hiếm gặp nhưng lại là những biến chứng nguy hiểm của bệnh động kinh.
- Tình trạng đầu tiên được gọi bằng thuật ngữ “trạng thái động kinh”, là thuật ngữ chỉ một cơn con giật xảy ra lâu quá 5 phút. Tình trạng này có thể khiến người bị động kinh gặp nguy cơ tổn thương não, thậm chí tử vong.
- Một trường hợp khác là đột tử không rõ nguyên nhân khi động kinh. Tình trạng này xảy ra ở những người bị động kinh nhưng không được điều trị kiểm soát, nhất là nếu họ thường xuyên co giật với đặc điểm là bị cứng cơ hoặc co giật rút cơ.
Cách chăm sóc trẻ bị động kinh
– Cha mẹ luôn động viên và khích lệ tinh thần của con, giúp trẻ luôn được thoải mái và sống vui tươi mỗi ngày. Đặc biệt cần lưu ý tránh giận dữ, cáu gắt hoặc tỏ thái độ thờ ơ, ghẻ lạnh với con. Vì khi trẻ buồn chán, lo lắng hoặc giận dữ bệnh sẽ tái phát nặng hơn.
– Khi trẻ bị động kinh cha mẹ cần trông nom con cẩn thận, không cho con đến gần ao hồ, trèo cây, đi xe đạp hoặc ra đường một mình mà không có người lớn đi cùng. Đồng thời ba mẹ cũng nên khuyến dặn dò không được làm những việc trên để tránh cơn động kinh đột ngột sẽ nguy hiểm cho tính mạng của trẻ.
– Xây dựng chế độ dinh dưỡng hợp lý để bồi bổ cơ thể cũng như nâng cao sức đề kháng cho trẻ. Đặc biệt cha mẹ tuyệt đối cho trẻ tránh xa rượu bia, thuốc lá và cà phê. Vì những chất kích thích này rất nguy hiểm có thể làm bệnh nặng thêm.
– Cho con uống thuốc đúng thời gian, liều lượng theo đúng chỉ dẫn của bác sĩ. Vì nếu quên cho con uống một ngày, bệnh sẽ nặng thêm và việc điều trị sẽ khó khăn hơn.
Tham khảo thêm:
Xử trí một số bệnh thường gặp ở trẻ em