Những căn bệnh có thể dẫn tới huyết áp thấp là các bệnh lý về tim mạch (nhồi máu cơ tim, suy tim), những bệnh lý nội tiết (cường giáp, nhược giáp, bệnh của tuyến thượng thận…) hay quá trình mang thai.
MỤC LỤC :
Huyết áp thấp là gì?
– Huyết áp thấp là tình trạng khi chỉ số huyết áp tâm thu nhỏ hơn 85mmHg hoặc/và huyết áp tâm trương nhỏ hơn 60mmHg.
– Tuy nhiên điều này chỉ mang tính tương đối. Trên thực tế, huyết áp thấp được hiểu là tình trạng huyết áp của một người bị hạ xuống thấp hơn so với huyết áp bình thường của người đó.
– Triệu chứng của bệnh huyết áp thấp:
- Đau đầu hoa mắt chóng mặt.
- Giảm khả năng tập trung, trí nhớ kém.
- Người mệt mỏi, nặng có thể ngất xỉu.
- Buồn nôn và nôn.
- Mạch nhanh, thở nông
- Sắc da nhợt nhạt, có thể có cơn rét run, nhìn mờ.
- Nếu huyết áp thấp kéo dài không được điều trị có thể gây thiểu năng tuần hoàn não, trầm cảm…
Những căn bệnh có thể dẫn tới huyết áp thấp
Huyết áp được tính bởi cung lượng tim nhân với sức cản ngoại vi. Do vậy tất cả các yếu tố làm thay đổi cung lượng tim và sức cản ngoại vi đều dẫn đến sự biến động về huyết áp.
Bệnh lý về tim mạch
– Suy tim: trong bệnh lý suy tim, hoạt động co bóp bơm máu của tim sẽ bị suy giảm, lực co bóp của cơ tim giảm và thể tích nhát bóp cũng giảm. Khi lượng máu được đẩy đi giảm thì áp lực của mạch máu lên thành động mạch cũng sẽ giảm theo, hệ quả là huyết áp bị hạ thấp.
– Nhồi máu cơ tim: nhồi máu cơ tim làm giảm hoạt động co bóp của cơ tim
Bệnh lý nội tiết
– Cường giáp: là tình trạng tuyến giáp tăng mạnh hoạt động sản xuất các hormon giáp trạng. Giai đoạn đầu của cường giáp thường có biểu hiện nhịp tim nhanh và nếu kéo dài dễ dẫn đến suy tim. Khi tim bị suy, mọi hoạt động bơm máu của tim bị suy giảm kéo theo sự hạ huyết áp.
– Nhược giáp hay còn gọi là giảm chức năng tuyến giáp, là một dạng rối loạn chức năng của tuyến giáp làm giảm việc sản xuất các hormon giáp trạng. Đối với hệ tim mạch, hormon giáp trạng có tác dụng kích thích làm tăng lưu lượng máu qua tim và tăng nhịp tim.
– Ngoài bệnh lý của tuyến giáp thì những bệnh lý của tuyến thượng thận cũng có thể là nguyên nhân gây nên tình trạng huyết áp thấp.
Các bệnh lý khác
- Nhiễm trùng huyết thể gây nên tình trạng sốc nhiễm khuẩn làm huyết áp tụt nhanh đột ngột nguy hiểm đến tính mạng.
- Mất máu quá nhiều do chấn thương hoặc chảy máu nội mô. Mất máu quá nhiều làm giảm thể tích tuần hoàn trong cơ thể dẫn đến sự tụt huyết áp.
- Mất nước do sốt cao, nôn mửa, tiêu chảy…làm huyết áp tụt xuống thấp qua cơ chế làm giảm thể tích tuần hoàn, đồng thời cũng làm giảm lượng oxy được cung cấp đến các mô và cơ quan. Mất nước nếu không được xử lý kịp thời sẽ dẫn đến tử vong.
- Mang thai: trong thai kỳ, ngoài nhiệm vụ cung cấp đủ máu và oxy cho cơ thể mẹ, tuần hoàn mạch máu của người mẹ còn phải phân chia để nuôi dưỡng cả thai nhi. Do vậy thể tích tuần hoàn cũng bị giảm đồng nghĩa với việc huyết áp cũng giảm dần và có thể trở lại bình thường sau khi sinh con.
- Phản ứng dị ứng nặng (sốc phản vệ) không những gây hạ huyết áp mà còn nguy hiểm đến tính mạng nếu không được xử lý kịp thời.
- Do tác dụng phụ của thuốc điều trị các bệnh khác như thuốc lợi niệu, thuốc chẹn beta, thuốc chống trầm cảm hay một số thuốc điều trị parkinson…
Tham khảo thêm:
Huyết áp bà bầu bao nhiêu là bình thường?